Văn hóa Mỹ - Việt qua một số chủ điểm hội thoại hàng ngày - chủ điểm trường học

Tác giả: PGS. TS. Trần Xuân Điệp - Cập nhật: 9/15/2014

Sau công trình nghiên cứu dài hạn “Đối chiếu văn húa Mỹ - Việt qua một số chủ điểm hội thoại hàng ngày”, chúng tôi chủ trương công bố các kết quả nghiên cứu (xem Tạp chớ khoa học – Journal of Science (ĐHSPHN), ISSN: 0868-3719, số 53, No. 7/ 2008, trang 134-142), Tạp chí khoa học – Journal of Science, (ĐHSPHN), ISSN 0868 - 3719, Vol. 55, No. 1/ 2010, trang 123 - 134), Ngôn ngữ và đời sống , Số 10 (168) - 2009, tr 40 - 3). Tiếp theo loạt bài báo nói trên, bài báo này sẽ bàn về sự biểu hiện về văn hoá qua chủ điểm nhà trường dưới góc độ đối chiếu Mỹ - Việt. Bài bỏo sẽ bàn về lối ứng xử hữu ngụn hoặc/ và phi ngụn giữa thầy và trũ, giữa trũ với trũ tại cỏc trường học ở Hoa Kỡ và đối chiếu với những tương đương trong các trường học ở Việt Nam. Tù đó rút ra những kết luận về văn hóa và ngôn ngữ được sử dụng trong bối cảnh nhà trường từ góc độ đối chiếu Mỹ - Việt.

MỞ ĐẦU

Theo Emmitt (1989: 39) thì văn hoá là lối sống, là toàn bộ hoàn cảnh mà trong đó chúng ta tồn tại, suy nghĩ, cảm giác và liên hệ với người khác. Như vậy, khi áp dụng vào giáo dục, văn hoá cũng quy định hình thức dạy học tương ứng (Trần Xuân Điệp, sđd.). Do đó, từ một nền giáo dục nọ sang nền giáo dục kia, mà cụ thể ở đây là từ một trường học ở Việt Nam nay chuyển sang sinh hoạt ở một trường học ở Hoa Kì, một học sinh/ sinh viên Việt Nam chắc chắn sẽ thấy nhiều điều ngạc nhiên. Một trong những chủ điểm của hội thọai hàng ngày là nhà trường, trong đó ngôn ngữ và văn hoá đan xen với nhau, giúp cho giao tiếp diễn ra được suôn sẻ. Do đó, để xem xét sự khác biệt về văn hoá phải tính đến ngôn ngữ và để xét ngôn ngữ phải xem xét nó trên cơ sở một nền tảng văn hoá nhất định. Là một phần của đề tài nghiên cứu dài hạn, công trình này chủ trương xem xét sự tương tác giữa văn hoá và ngôn ngữ trong chủ điểm nhà trường qua góc độ đối chiếu Mỹ - Việt. Do đề tài là dài hạn nhưng để đảm bảo tính khả thi và độ sâu sắc cần thiết, phần này của đề tài cũng chỉ dừng lại ở việc khảo sát một số yếu tố văn hoá và một số hội thoại dễ thấy, mang tính tiêu biểu cho sinh họat hàng ngày tại trường học mà thôi. Là cơ sở của ngôn ngữ, các yếu tố văn hoá sẽ được xem xét trước. Do giới hạn của một văn bản thông tin khoa học chúng tôi chỉ đề cập đến kết quả nghiên cứu và thảo luận.

KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

1. Về quan hệ liên nhân tại trường học:

Phải nói ngay rằng các kết quả nghiên cứu khẳng định một chân lý đó là: tuy đã có rất nhiều định nghĩa về văn hoá nhưng trong khuôn khổ công trình nghiên cứu này văn hoá chỉ lối sống, là toàn bộ hoàn cảnh mà chúng ta tồn tại, suy nghĩ, cảm giác và liên hệ với người khác (Emmitt, sđd). ở trường học, mối quan hệ trong sinh họat hàng ngày chủ yếu là giữa học sinh/ sinh viên với nhau và với giáo viên. Sau đây là kết quả cụ thể:

- Quan hệ giữa người học và người dạy: Quan hệ này trong văn hoá Mỹ là quan hệ thân mật, bình đẳng thiên về quan hệ bạn bè trong khi quan hệ này trong văn hoá Việt Nam về cơ bản vẫn là quan hệ mang tính tầng bậc, trên dưới rõ rệt mà trong tiếng Việt được biểu đạt qua lối nói "thầy - trò". Điều này có thể giải thích bằng quan niệm cho rằng văn hoá Việt Nam còn in nặng dấu ấn của Khổng giáo, theo đó người dạy là "thầy" - cha, ở đây là người cha thứ hai (Trần Xuân Điệp, 2005). Kết quả thống kê cho thấy phần lớn người học, kể cả sinh viên, học sinh ở các thành phố lớn đều cảm thấy hết sức dè dặt khi phải hỏi thầy/ cô giáo những câu hỏi. Thậm chí, còn nhiều học sinh, nhất là ở các vùng nông thôn, nơi còn mang nặng tính truyền thống, vẫn quan niệm việc hỏi thầy cô giáo nhiều là vặn vẹo, là vô lễ (?). Vì người dạy được xem là bề trên, là "khuôn vàng thước ngọc", không thể sai trong mọi trường hợp, nên phải được đối xử đặc biệt và việc hỏi nhiều nghĩa là căn vặn và hàm ngôn của việc hỏi như vậy là thầy dạy sai, hoặc có biểu hiện sai trái nào đó (?).

- Trong văn hoá Mỹ, vai trò của người dạy chỉ là người khích lệ (stimulator) người học tự suy nghĩ, khích lệ người học hỏi câu hỏi, thách thức và thậm chí tranh cãi với người dạy nhằm mục đích là để người học tự rút ra kết luận. Nói ngắn gọn, đây là vai trò của người dạy theo đường hướng lấy người học làm trung tâm. Trong văn hoá Việt Nam, mặc dù tinh thần lấy người học làm trung tâm đã được quán triệt từ lâu, tính chủ động của người học đã được khích lệ nhưng kết quả nghiên cứu vẫn chỉ rõ vai trò của người dạy vẫn là vai trò của người quyết định tối cao, của "khuôn vàng thước ngọc". Do vậy, bất kỳ điều gì người dạy nói đều được coi là chân lý. Vai trò của người học phần lớn vẫn là thụ động, ghi nhớ máy móc những điều người dạy chỉ ra. Nói vắn tắt, tính chủ động của người học đã được quan tâm nhưng chưa chiếm ưu thế. Một số người học đã thể hiện đủ tự tin để hỏi người dạy những câu hỏi liên quan đến chuyên môn và liên quan đến giáo dục nói chung. Tuy vậy, nhìn chung, thiên hướng dè dặt vẫn thuộc về đa số nhất là đối với học sinh ở nông thôn, xa những thành phố lớn, ở những cộng đồng mang nặng tớnh truyền thống.

- Về quan hệ trong nội bộ những người học, cả 2 nền văn hoá đều thể hiện tính thân mật, bè bạn. Tuy nhiên, do văn hoá Mỹ thuộc về chùm Anh - Mỹ nên một đặc trưng của nó là quan hệ liên nhân hẹp (narrow interpersonal relationships), trong khi đó quan hệ này của người Việt nói chung là rộng (broad interpersonal relationships). Chính vì vậy, trong hội thoại hàng ngày tại trường học, người Việt hay hỏi nhau về kết quả học tập và kết quả học tập được thông báo công khai trước lớp hoặc niêm yết nơi công cộng. Trong khi trong văn hoá Mỹ, việc này được xem là thuộc về đời tư và không công khai.

Theo Fishman (1972) thì văn hoá là yếu tố duy trì ngôn ngữ. Là một bộ phận của văn hoá, những quan hệ này có ý nghĩa quyết định đối với hình thức ngôn ngữ hội thoại hàng ngày.

2. Những tình huống ứng xử thường gặp trong giao tiếp hàng ngày

Văn hoá là một vấn đề rất lớn, nên đề tài này mới chỉ dừng lại ở những yếu tố văn hoá đan xen với ngôn ngữ trong những sự kiện giao tiếp thường gặp hàng ngày tại trường học.  Những sự kiện giao tiếp này là các cuộc trao đổi không phải chỉ là giữa những người học (học sinh/ sinh viên) với nhau mà còn là giữa những người học và người dạy.  Trong đó dễ nhận thấy nhất có thể kể đến chào hỏi, gặp gỡ người dạy để giải quyết các vấn đề mắc mớ liên quan đến học tập.

- Hàng ngày, khi gặp một giáo viên tại một trường học ở Hoa Kì, người học thường mỉm cười rồi nói "Hello"/ "Hi" kèm tên riêng của người giáo viên đó. Không nhất thiết phải đứng nghiêm và "chào thầy/ cô" như trong văn hoá Việt Nam. Thói quen này đối với người Việt là khó thay đổi. Phần nhiều các nghiệm thể cho rằng, nếu gặp thầy/ cô giáo nhiều lần trong ngày có thể chào bằng những cách thường tục đậm màu sắc thân mật như: "Thầy/ Cô chưa về ạ?", "Thầy/ Cô làm gì đấy ạ?",  hay "Thầy/ Cô ăn cơm chưa ạ?" vv.... Khi gặp các tình huống tương tự tại các trường học ở Hoa Kì họ có thiên hướng chuyển nghĩa đen những lối chào như vậy sang tiếng Anh. Tương tự, khi chào "Hello/ Hi" kèm tên riêng của giáo viên họ đều cảm thấy "áy náy" vì thấy chưa thể hiện sự kính trọng tới mức cần thiết.

- Trong văn hoá Mỹ, sau một kì kiểm tra, nếu một người học nào đó làm bài không tốt thì thường được người dạy yêu cầu gặp tại phòng riêng (ở trường) để nói về việc đó. Trong trường hợp này, trong khi nói chuyện với người dạy, người học phải nhìn thẳng vào mắt người đang nói chuyện với mình. Văn hoá Mỹ quy định làm như vậy là thể hiện sự tôn trọng đối với người đang giao tiếp với mình. Nếu nhìn đi chỗ khác, xuống nền nhà, trần nhà, chẳng hạn, là thể hiện sự thờ ơ, thiếu lịch sự, thiếu tôn trọng đối với người kia. Trong tình huống tương tự trong văn hoá Việt Nam, phần lớn các nghiệm thể đều cho rằng, nhìn thẳng vào mặt người nói là vô lễ, là thách thức, và cho rằng để thể hiện sự hối lỗi phải nhìn xuống. Tuy thuộc về địa hạt giao tiếp phi ngôn nhưng đây là một đặc điểm hết sức quan trọng trong đào tạo tiếng Anh nhằm mục đích giao tiếp cho người Việt.

- Trong trường hợp không hiểu hết một vấn đề gì đó trong bài giảng, chẳng hạn, trên lớp, người Mỹ thường giơ tay xin phép phát biểu và nói thẳng là chưa hiểu và đề nghị người dạy giảng giải lại. Trái lại, sinh viên/ học sinh Việt Nam thường thể hiện sự rụt rè, không đủ mạnh dạn để hỏi thẳng trên lớp nhất là trong trường hợp lớp đông, nhiều người lạ, và có thể chỉ hỏi lại bạn bè hoặc giữ mãi tình trạng không hiểu đó và/ hoặc tự tìm hiểu.

- Trong trường hợp có hẹn gặp phải đến trường nhưng do một lý do bất khả kháng (ốm chẳng hạn...) không đến được thì một học sinh/ sinh viên Mỹ thường liên hệ ngay bằng điện thọai trình bày lý do và xin hoãn cuộc hẹn gặp đến khi khác (đến khi khỏi ốm...). Người Việt, trong trường hợp này, thì hoặc là nhờ cha/ mẹ/ người nhà đến xin phép hộ hoặc đơn giản là không đến và giải thích sau. Sự khác biệt này có thể giải thích bằng một thực tế, đó là việc dùng điện thoại chưa có, chưa phổ biến, chưa trở thành hẳn một nét văn hoá trong sinh họat hàng ngày, ngay cả ở những nơi đã có lắp điện thọai. Kết qủa khảo sát cho thấy rất nhiều nghiệm thể vẫn cho rằng dùng điện thọai trong trường hợp này là thiếu tôn trọng đối với các thầy cô giáo, nên cha/ mẹ/ người nhà phải đến trực tiếp báo cáo hộ. Hơn nữa, như trên đã trình bầy, thói quen như vậy cũng có thể giải thích bằng mối quan hệ liên nhân trong văn hoá Việt Nam là rộng hơn so với quan hệ liên nhân trong văn hoá Mỹ nơi việc hẹn gặp và hoãn gặp này chỉ được xem là việc riêng của học sinh/ sinh viên đó mà thôi.

- Giáo dục đại học ở Hoa Kì là theo hệ thống tín chỉ. Tuỳ theo khả năng và sự tính toán cá nhân về thời gian mà một sinh viên có thể đăng ký một hay nhiều môn học khác nhau. Trong trường hợp không thể hoàn thành hết các yêu cầu của các môn đã đăng kí, sinh viên Mỹ có thể gặp cán bộ tư vấn học tập (academic advisor) để được tư vấn và xin phép giáo viên bộ môn bỏ bớt môn hoặc xin phép giáo viên để học vào học kỳ tới. Việc làm tương tự như vậy ở các trường đại học Việt Nam không phải là luôn khả thi do Việt Nam mới áp dụng hệ thống đào tạo tín chỉ và các nguồn lực không phải lúc nào cũng thỏa mãn được các nhu cầu cụ thể của người học. Do vậy các thông tin về tình huống này chưa đủ nhiều để đưa ra kết luận thoả đáng.

- Một tình huống thực tế có thể có trong cả 2 nền văn hoá đó là: một học sinh/ sinh viên có cảm giác một giáo viên có ác cảm với mình. Trong văn hoá Mỹ, cách ứng xử duy nhất là vẫn phải học đầy đủ, chăm chỉ, và tốt đồng thời có thể trình bầy cảm nghĩ của mình với cán bộ tư vấn. Kết quả khảo sát cho thấy ở Việt Nam phần lớn các nghiệm thể cho rằng, học sinh/ sinh viên đó thường trao đổi với bố/ mẹ/ người thân hy vọng tìm cách khắc phục. Và thường thì lời khuyên cuối cùng vẫn là cố gắng học chăm chỉ và học tốt mà thôi.

- Điểm học tập trong văn hoá Mỹ thường được xác định bằng tổng của các điểm thành phần như sau:

Quizzes (bài kiểm tra ngắn, 15' chẳng hạn)

Tests (kiểm tra hết môn)

Reports (Thu họach)

Class participation (Đóng góp vào bài giảng trên lớp)

10%

40%

30%

20%

Khi không hoàn toàn đồng ý với cách tính điểm như vậy, học sinh/ sinh viên Mỹ thường xin gặp giáo viên để trình bầy ý kiến riêng của mình, trong khi người Việt thường chấp nhận, hoặc nếu có chăng nữa thì lại phàn nàn với bạn bè hoặc người khác. Việc chấp nhận như vậy có thể xuất phát từ 2 nguyên nhân khác nhau: hoặc là do quan niệm "thầy luôn luôn đúng" hoặc là do rụt rè nên không dám nói thẳng suy nghĩ của mình (như đã trình bày ở trên).

- Trong khi thi/ kiểm tra, trên nguyên tắc, cả người Mỹ và người Việt đều phải có trách nhiệm không cho người khác chép bài của mình vì việc để người khác chép bài đều là vi phạm quy chế thi. Khảo sát cho thấy: cả người Mỹ và người Việt đều tìm cách bảo vệ bài của mình nhưng không hành xử gay gắt đến mức báo cáo giám thị, hoặc to tiếng ngăn cản; ngược lại, cũng không tế nhị đến mức tạo điều kiện thuận lợi để người khác chép bài.

- Trong giờ trả bài kiểm tra khi phát hiện bài bị chấm sai, người Mỹ thường tìm cách gặp và trình bầy vấn đề riêng với thầy/ cô giáo. Tuy thẳng thắn nhưng không đến mức đứng dạy thắc mắc ngay trong giờ học. Số ít sinh viên đại học ở Việt Nam cũng có thể hành xử như vậy nhưng không phổ biến. Tuy nhiên, học sinh Việt Nam, nhất là ở những vùng nông thôn, thường có khuynh hướng chấp nhận hoặc/ và phàn nàn với người khác, hoặc là bạn, hoặc là các bậc phụ huynh. Nguyên nhân, cũng như đã trình bầy ở trên, việc thẳng thắn hỏi lại thầy/ cô giáo thường bị xem là vô lễ, trái đạo lý đối với thầy (vì thầy luôn luôn đúng!)

- Trên lớp, khi thầy/ cô giáo hỏi, cả người Mỹ và người Việt đều phải giơ tay khi muốn phát biểu. Tuy nhiên, kết quả khảo sát cho thấy hai khuynh hướng: một số học sinh, nhất là ở các lớp dưới, thường tranh lấy cơ hội phát biểu số khác lại có xu hướng ngồi yên vì quá rụt rè, sợ như vậy là "khoe khoang"(?)

 

Tiểu kết: Những tương đồng và dị biệt về quy tắc ứng xử ở trường học mang đậm mầu sắc văn hoá có thể được khái quát thành bảng so sánh đối chiếu Mỹ - Việt sau đây:

 

Hoa Kì

Việt Nam

                                                          Từ Mầm non đến

Trung học

1. Luôn gọi thầy/ cô giáo bằng chức danh khoa học/ học vị hay từ tôn xưng (nếu không có chức danh khoa học hoặc không có học vị TS) kèm họ của thầy/ cô giáo đó: Dr. Walker (TS Walker), Mr. Fields (Ông Fields), Mrs. Ramirez (Bà Ramirez), Professor McGuinness (GS McGuinness)  - Không bao giờ gọi thầy/ cô giáo bằng "Thầy", "Cô" như trong tiếng Việt.

Luôn gọi giáo viên bằng "Thầy"/ "Cô" kèm tên riêng. Ngay cả những người không trực tiếp dạy học, hoặc vốn là giáo viên, những người công tác trong ngành giáo dục, nhân viên, cán bộ ở các cơ sở đào tạo cũng được gọi bằng "thầy"/ "cô" (giáo).

2. Luôn đến lớp đúng hoặc trước giờ học một chút.

Tương tự

3. Khi cần hỏi trên lớp phải giơ tay.

Tương tự

4. Khi phát biểu trên lớp không phải đứng dậy.

Luôn phải đứng dậy

5. Khi nghỉ học vẫn phải học và làm bài đầy đủ. Hỏi thầy/ cô hoặc bạn về phần việc giao trên lớp.

Tương tự

6. Do có lý do cấp thiết có thể phải nghỉ học phải báo cáo thầy/ cô giáo trước và xin thầy/ bù phần bài bị mất.

Tương tự

7. Phải tự làm lấy các bài tập.

Tương tự

8. Không được gian lận khi thi/ kiểm tra.

Tương tự

9. Nếu gặp khó khăn trong học tập xin gặp thầy/ cô giáo để được giúp đỡ. Thầy/ cô giáo rất phấn khởi giúp học sinh.

Tương tự

10. Học sinh phải có giấy xin phép của bố/ mẹ giải thích về việc nghỉ học hay đi muộn.

Tương tự nhưng thực hiện không đều

11. Lý do nghỉ học duy nhất có thể chấp nhận được là ốm, gia đình có tang, hoặc ngày nghỉ theo tôn giáo. Mọi lý do nghỉ học khác đều vi phạm nội quy.

Tương tự

12. Khi thầy/ cô giáo hỏi một câu hỏi mà không gọi cụ thể học sinh nào thì bất cứ ai biết phải giơ tay xin phát biểu.

Tương tự

                                                               Đại học

 

1. Trượt môn nào phải học lại môn đó.

Tương tự

2. Mọi sinh viên đều phải học chăm tất cả các môn

Tương tự

3. Khi không được sự đồng ý của sinh viên thì không trao đổi với cha/ mẹ sinh viên về việc học hành của sinh viên đó.

Luôn được phép trao đổi với cha/ mẹ nhưng trong thực tế ít xảy ra vì quan niệm rằng sinh viên đã lớn nên đã đủ khả năng tự chịu trách nhiệm.

4. Sau khi đã theo học tất cả những môn học bắt buộc, sinh viên có thể lựa chọn học thêm những môn khác.

Tương tự

5. Tất cả sinh viên đều được đối xử bình đẳng trên lớp và đánh giá bằng thực lực.

Tương tự

6. Sinh viên phải tự chịu trách nhiệm về sự tiến bộ trong học tập của mình. Tuy sinh viên phải được thầy giúp đỡ nếu họ cần.

Tương tự

7. Bất cứ sinh viên nào có khả năng và có ý muốn đều được vào học đại học.

Tương tự

Về cách tính điểm

Hoa Kì

Việt Nam

Tuy Hoa Kì là một quốc gia đa văn hoá, mỗi cơ sở đào tạo có thể có những cách tính điểm riêng nhưng nhìn chung, giáo viên thường tính điểm trên cơ sở tổng hợp các hình thức sau đây:

1. Test: Bài thi/ kiểm tra chính thức

2. Quizz: Bài kiểm tra ngắn, thường không báo trước

3. Homework: Bài tập về nhà

4. Class participation: Đóng góp xây dựng bài trên lớp (tích cực tham gia vào giờ học trên lớp thông qua hỏi và trả lời các câu hỏi).

5. Research paper: Viết báo cáo thu hoạch sau khi tra tìm thông tin trong thư viện.

6. Attendance: Chuyên cần (đi học đầy đủ)

7. Promptness: Không chậm trễ

8. Attitude: Hứng thú học trên lớp, tôn trọng thầy/ cô giáo, môn học và bạn bè

 

Thống nhất cách tính điểm toàn quốc, điểm thường được tổng hợp các hình thức đánh giá sau đây:

 

1. Bài thi/ kiểm tra học kì, cuối năm, hết môn, lên lớp

2. Kiểm tra 15 phút

 

3. Bài tập về nhà

4. Đóng góp xây dựng bài trên lớp

5. Viết thu hoạch sau khi đã tự tìm hiểu thông tin

6. Chuyên cần

7. Nộp bài đúng hạn

8. Thái độ: Hứng thú học trên lớp, tôn trọng thầy cô giáo và bạn bè

 

Nhận xét: Tuy những hình thức đánh giá có nhiều nét tương đồng nhưng ở Việt Nam việc tính điểm không giống hẳn cách tính điểm ở Hoa Kì. Chẳng hạn, hình thức tính điểm phổ biến nhất là kết hợp các mục 1. và 2., còn các mục khác nhiều khi không lượng hoá cụ thể thành điểm số.

Như đã nêu, văn hoá của Hoa Kì mang tính đa dạng cao. Các trường học thường có cách tính điểm riêng. Tuy vậy, phần lớn đều dựa trên 2 loại thang điểm: thang điểm chữ (letter grade) hoặc thang điểm số (number grade). Bảng dưới đây chỉ ra sự tương đương giữa 2 hệ thống thang điểm này:

 

Letter grades (Điểm bằng chữ)

Number equivalent

(Tương đương bằng điểm 100/100)

 

Meaning (ý nghĩa)

A

90 - 100

Excellent (Giỏi)

B

80 -   89

Good (Khá)                    Passing 

C

70 -   79

Average  (TB khá)          (Đỗ)

D

60 -   69

Poor (TB kém)

F

0 -   59

Failing (Trượt)

 

 Thang điểm thống nhất ở Việt Nam: 10/ 10

Thang điểm 10/ 10

ý nghĩa

8 - 10

Giỏi  (Excellent)

7 -   7, 9

Khá (Good)                            Đỗ

6 -   6, 9

TB khá (Average plus)          (Passing)

5 -   5, 9

TB (Average)

0 -   4, 9

Trượt (Failing)

 

3. Một số đặc điểm của ngôn ngữ học đường:

Theo lý thuyết về tính đa dạng của ngôn ngữ (Trần Xuân Điệp, 2005) và phân tích diễn ngôn, ngôn ngữ biến đổi theo trường diễn ngôn; nghĩa là lĩnh vực hoạt động nào thì ngôn ngữ ấy. Nền tảng văn hoá nói trên đã là cơ sở và đan xen với các thành ngữ Anh-Mỹ. Dưới đây là là một số thành ngữ mà học sinh/ sinh viên Mỹ thường dùng và tương đương trong tiếng Việt:

Thành ngữ học sinh/ sinh viên Mỹ thường dùng

Tương đương trong tiếng Việt

Cut the chatter; Button your lip

Im đi! Ít mồm chứ mày!...

Move it! Hop to it!

Nhanh lên, nhanh chân lên

Grab a seat!

Ngồi xuống đi mày!

To run something into the ground

Làm/ nói về (việc gì đó) quá nhiều

In hot water; up the creek

(Đang) "căng", "hết hơi", "gẫy", "khốn khổ"  

To put in an all-nighter; to burn the midnight oil

Ôn thi mất ăn mất ngủ/ "cầy" khuya/ "Bò ra" ôn thi/ Học ngày, học đêm

Darn! drat! phooey! rats!

"Chết dở rồi"!, "Gẫy răng rồi!", "Bỏ mẹ rồi!"

Toughie; bad news

"Khốn khổ!", "Tai họa!", "Gay quá!" (một điều gì đó/ một người nào đó không hay...)

You guys 

Tất cả chúng mày/ Tất cả các bạn...

To look down on someone

"Tinh tướng", "sĩ", "lên mặt" ... với

To look up to someone

Ngưỡng mộ/ thờ phụng (người nào đó)

To look something up

Tra cứu, tìm thông tin (sách/ từ điển/ báo chí...)

To help out

Hộ một tay/ hỗ trợ/ ... (giúp làm một việc, báo cho biết...)

 

Theo đường hướng lấy người học làm trung tâm, trong các lớp học ở Hoa Kì, học sinh/ sinh viên phải tham gia tích cực vào bài học, phải hỏi và trả lời các câu hỏi, có thể hỏi các câu hỏi ngắn trên lớp, cũng có thể gặp riêng thầy/ cô giáo để được giúp thêm hoặc giảng giải cặn kẽ hơn về nội dung bài học trên lớp. Đan xen với lề lối làm việc này là những thành ngữ và đoản ngữ thường được dùng để hỏi và tìm hiểu thông tin trong lớp học. Về tính phù hợp với ngữ cảnh, một số thành/ đoản ngữ phù hợp cho việc đặt câu hỏi trên lớp và phù hợp với lợi ích chung của cả lớp, số khác phù hợp cho việc hỏi riêng thầy/ cô giáo vì lợi ích riêng của người học. Tính tương đồng và dị biệt văn hoá cũng thấy được thông qua tương đương bằng tiếng Việt trong cùng một kiểu diễn ngôn. Cùng một mục đích giao tiếp (communicative purpose), cùng trường diễn ngôn (field of discourse), cùng phương thức diễn ngôn (mode of discourse) và cùng phong cách diễn ngôn (tenor of discourse) nhưng được hiện thực hoá thông qua những mẫu lời nói khác nhau do xảy ra trong 2 nền văn hoá khác nhau. Sau đây là một số những diễn ngôn mà đa số các nghiệm thể cho là tiêu biểu, diễn ra trong hai khu vực chính, trong nội bộ học sinh/ sinh viên và giữa học sinh/ sinh viên với giáo viên. Các diễn ngôn trong nội bộ học sinh/ sinh viên được xác lập trên cơ sở tình huống giao tiếp (situation), các diễn ngôn xảy ra giữa học sinh/ sinh viên với giáo viên là trên cơ sở chức năng giao tiếp (function):

Giao tiếp giữa học sinh/ sinh viên với học sinh/ sinh viên

Tình huống 1: 2 sinh viên rủ nhau ra sân vận động

Ngôn ngữ/ Người giao tiếp

Tiếng Anh

Tương đương trong tiếng Việt

A

I'm not in the mood to play today.

Hôm nay tao thấy làm sao ấy, chẳng thấy thích tập tành gì cả!

B

Why? You always enjoy it!

Sao? Máu lắm cơ mà!

A

Well, I was out late last night and I feel more dead than alive!

Đêm qua về  muộn. Mệt muốn chết đây!

A

A few laps will make you better!

Làm vài vòng quanh sân là dễ chịu ngay ấy mà!

B

OK. Let's go. I wonder how many laps we'll have to do.

 

ừ, thì đi. Không biết bọn mình phải khởi động bao nhiêu vòng ấy nhỉ?

A

We can ask the coach.

Hỏi ông bầu xem!

B

The coach really likes to run us into the ground!

Hỏi ông ấy thì gì mà ông ấy chẳng bắt bọn mình chạy đến bở hơi tai!

A

Rats!

Thế là thế quái nào nhỉ!

B

Last semester, some kid gave him trouble and he had to run around the track thirty times!

Kì trước, thằng nào đó trêu ông ấy và thế là nó bị hành tới 30 vòng đấy!

A

Toughie!

Quả này là hết hơi rồi!

Coach

Ok, hurry up! Move it! Let's go, you guys!

Được rồi. Khẩn trương lên. Nhanh chân lên nào! Tất cả các bạn, nào, chạy đi.

A to B

We are up the creek!

Gay to rồi!

B

He's really in a rotten mood today, all right!

Đúng là hôm nay ông ấy “điờn”!

Coach

Forty laps!

40 vòng!

A

Forty laps! That'll take all afternoon!

40 vòng cơ à! Thế là đi đứt cả buổi chiều còn gì?

B

Phooey!

Khốn nạn rồi!

Coach

Cut the chatter and hop to it!

Im đi rồi nhanh lên!

Tình huống 2: A đang ở trong thư viện thì B đến

Ngôn ngữ/ Người giao tiếp

Tiếng Anh

Tương đương trong tiếng Việt

B

Hi. Have you seen Juan Carlos?

 

Này. Có thấy thằng Juan Carlos đâu không?

A

No. Are you going to discuss the organization of the next essay?

 

Không. Các cậu định thảo luận về dàn bài của bài luận đấy à?

B

Oh no! He owes me three dollars and I need the money to pick up some tickets for next week's rock concert.

Ồ, không phải đâu! Nó nợ tớ 3 đồng mà tớ đang cần tiền để mua vé xem hoà nhạc rốc tuần tới.

A

You can have some from me, all right!

Lấy tạm tiền của tớ đây này!

B

You will? Thanks!

Thật thế à? Cậu tốt quá!

 

Tình huống 3: A bước vào nhà ăn, buồn vì vừa bị điểm thấp. A bước về phía bàn các bạn đang ăn.

Ngôn ngữ/ Người giao tiếp

Tiếng Anh

Tương đương trong tiếng Việt

Bạn 1

Hi, there. Why don’t you grab a seat? I have to go to class.

Này. Cứ đứng đấy làm gì? Tao phải lên lớp đây.

A

Thanks. Drats!

Đang chán đời đây!

Bạn 2

Hey, you look kind of down.

 

Này. Sao trông mày có vẻ sầu đời vậy?

A

I got an F for the last test!

Bài kiểm tra vừa qua không qua mất rồi!

Bạn 2

Don’t worry about it. Mr. Calderwood always drops the lowest test grade.

 

Việc gì mà lo. Có bao giờ  thầy Calderwood lại tính cả điểm thấp nhất đâu.

A

Sure?

Có chắc thế không?

Bạn 3

Yeah. I had him last year and he did the same thing then.

 

Còn sao nữa. Năm ngoái tao học thầy ấy. Thầy ấy thế đấy mà!

A

Yes. Let's hope for the best!

Ừ. Cũng hy vọng vậy thôi!

Tình huống 4: Hai học sinh đang bàn về bài thi vừa làm ở hành lang.

Ngôn ngữ/ Người giao tiếp

Tiếng Anh

Tương đương trong tiếng Việt

A

Bad news!

Bài làm chán ghê!

B

Yes, it really was a tough test.

 

Còn sao nữa. Đề "xương" thật!

A

How about you?

Mày thế nào?

B

I think I passed, but I'm not sure.

May ra thì qua, nhưng không chắc lắm.

A

The results are not known until Thursday.

Mãi đến Thứ Năm mới biết điểm.

B

Yeah! Well, we'll find out for sure then.

ừ. Đến hôm ấy mới biết chắc được.

A

Darn!

Chán quá!

B

See you later. I told Jennifer I'd meet her at the bus stop at three o' clock.

Đi nhé! Tao hẹn đón Jennifer ở bến xe lúc 3h.

A

I just can't keep from thinking!

Làm sao mà quên đi được, không biết nữa!

B

Take it easy. 'Bye.

Cứ cho qua đi. Tao đi đây.

Giao tiếp giữa học sinh/ sinh viên và giáo viên

Trên lớp:

1. Yêu cầu nhắc lại:

Ngôn ngữ/ Người giao tiếp

Tiếng Anh

Tương đương trong tiếng Việt

HS/ SV

I'm not sure I understand. Will you please repeat that?

Có lẽ em chưa hiểu. Thầy/ cô vui lòng nhắc lại cho em ạ.

Thầy/ cô giáo

Yes, I said that . . .

Ừ/ Được rồi. Tôi nói rằng....

2. Yêu cầu nói chậm lại

Ngôn ngữ/ Người giao tiếp

Tiếng Anh

Tương đương trong tiếng Việt

HS/ SV

Please say that again more slowly. I didn’t get what you said.

Thầy/ Cô vui lòng nói chậm lại một chút ạ. Thầy/ Cô nói gì em không nghe rõ ạ.

Thầy/ cô giáo

I said ....

Tôi nói....

3.  Yêu cầu giải thích lại

Ngôn ngữ/ Người giao tiếp

Tiếng Anh

Tương đương trong tiếng Việt

HS/ SV

Would you mind rewording that?

Thầy/ Cô làm ơn giải thích lại cho em với ạ.

Thầy/ cô giáo

No. I said . . .

Được thôi. Tôi nói là....

 

4.  Khẳng định mức độ chính xác:

Ngôn ngữ/ Người giao tiếp

Tiếng Anh

Tương đương trong tiếng Việt

HS/ SV

Excuse me. Do you mean that. . . ?

 

Thầy/ Cô cho em hỏi. ý thầy/ cô nói là... có phải không ạ?

Thầy/ cô giáo

Yes, that's correct.

Đúng rồi.

Gặp riêng giáo viên:

1.  Xin gặp giáo viên:

Ngôn ngữ/ Người giao tiếp

Tiếng Anh

Tương đương trong tiếng Việt

HS/ SV

Do you have a minute?

 

Em xin gặp thầy/ cô một chút ạ.

Thầy/ cô giáo

I can't talk right now. How about tomorrow at this time?

 

Ngay bây giờ thì không được em ạ. Giờ này ngày mai nhé?

HS/ SV

Fine. See you then.

 

Dạ, được ạ. Ngày mai vào giờ này em xin gặp thầy/ cô ạ.

2. Xin hỏi ý kiến giáo viên về việc học tập của mình

Ngôn ngữ/ Người giao tiếp

Tiếng Anh

Tương đương trong tiếng Việt

HS/ SV

Can you tell me how I'm doing in class?

Em xin hỏi thầy/ cô em học trên lớp có được không ạ?

Thầy/ cô giáo

I'd be happy to.

Được thôi, em ạ.

3. Xin ý kiến tư vấn

Ngôn ngữ/ Người giao tiếp

Tiếng Anh

Tương đương trong tiếng Việt

HS/ SV

I'm having trouble with the essay. Do you have any suggestions

about organization?

Em đang viết tiểu luận, mà khó quá thầy/ cô ạ. Thưa thầy/ cô, dàn bài thì nên thế nào ạ?

Thầy/ cô giáo

Yes, limit your topic and decide on your main ideas.

Chủ đề nên hẹp thôi và ý chính định nói gì thì phải dứt khoát mới được.

HS/ SV

That's really helpful. I certainly understand it better now. Thank you.

Thầy/ cô góp ý thế tốt quá. Bây giờ em hiểu vấn đề rõ hơn hẳn rồi. Em cảm ơn thầy/ cô.

Thầy/ cô giáo

You're welcome. Come again whenever you need help. See you in class.

Có gì đâu em! Khi nào cần gì thì cứ đến nhé. Ta vào lớp đi!

Hoặc:

Ngôn ngữ/ Người giao tiếp

Tiếng Anh

Tương đương trong tiếng Việt

HS/ SV

How can I improve my work?

 

Thưa thầy/ cô, bài làm của em nên sửa thế nào ạ?

Thầy/ cô giáo

You could . . .

Có thể ...

HS/ SV

What other changes do you suggest?

Thưa thầy/ cô, còn phải thay đổi gì nữa không ạ?

Thầy/ cô giáo

I think you should . . .

Theo tôi, em nên...

Sinh viên nói với thư kí của một giáo sư:

Ngôn ngữ/ Người giao tiếp

Tiếng Anh

Tương đương trong tiếng Việt

HS/ SV

Excuse me.

Xin lỗi, cho em hỏi.

Thầy/ cô giáo

Yes, what do you want?

Gì đấy? Em cần gì nào?

HS/ SV

I need to speak to Professor Miller.

Thưa cô, em muốn gặp/ thưa chuyện với GS Miller.

Thầy/ cô giáo

Just a moment. I'll tell the professor you're here.

Đợi một lát nhé. Tôi sẽ báo cho GS là em đã đến.

4. Một số đặc điểm văn hoá của lối ứng xử trên lớp thấy được qua ngôn ngữ giao tiếp:

- Một điều đáng chú ý về cách ứng xử của giáo viên trong lớp học ở  Hoa Kì là: thay vào việc trả lời các câu hỏi ở trên lớp họ thường động viên những học sinh/ sinh viên khác trả lời. Điều này có thể thấy được qua diễn ngôn dưới đây:

Tình huống: Cả lớp đang thảo luận về giáo dục ở Hoa Kì

Ngôn ngữ/ Người giao tiếp

Tiếng Anh

Tương đương trong tiếng Việt

Thầy/ cô giáo

That's how students act in the United States.

Sinh viên/ học sinh ở Mỹ là thế đấy.

HS/ SV

Can they say that they disagree with the teacher?

 

Liệu học sinh/ sinh viên nói là họ không nhất trí với thầy/ cô có được không ạ?

Thầy/ cô giáo

That's an excellent question. Can anyone answer it?

Câu hỏi hay quá! Em nào trả lời được nào?

HS/ SV (khác)

Why not? You can even say that the teacher is wrong!

Có gì mà không nói! Thậm chí nói thầy/ cô sai cũng được cơ mà!

Thầy/ cô giáo

Good answer! Can anyone add to her answer?

Trả lời hay quá! Ai có ý kiến bổ sung cho bạn nữa nào?

 

- Một nét đặc biệt khác nữa là giáo viên Mỹ không cảm thấy có điều gì không thoải mái khi nói là họ không trả lời được một câu hỏi của học sinh/ sinh viên. Tuy vậy, đôi khi họ không trả lời các câu hỏi mà khuyến khích học sinh/ sinh viên tự suy nghĩ thông qua việc yêu cầu họ tự tìm lấy thông tin:

Tình huống: Lớp học đang thảo luận về những con sông lớn ở Hoa Kì. Một học sinh/ sinh viên muốn biết độ dài của sông Mississippi.

Ngôn ngữ/ Người giao tiếp

Tiếng Anh

Tương đương trong tiếng Việt

HS/ SV

How long is the Mississippi River, please?

Thưa thầy/ cô, sông Mississippi dài bao nhiêu ạ?

Thầy/ cô giáo

I'm not sure exactly how long the Mississippi River is. Why don't you look it up in the encyclopedia and tell the class tomorrow?

Tôi cũng không biết rõ. Em tra trong Bách khoa toàn thư rồi ngày mai cho lớp biết nhé.

- Cũng như học sinh/ sinh viên Việt Nam, học sinh/ sinh viên Mỹ cũng mong muốn được điểm cao, do vậy, thường thì họ không hài lòng với điểm C (70 - 79 - tương đương Trung bình khá trong hệ thống cho điểm Việt Nam). Trong trường hợp cảm thấy điểm của mình không đến nỗi quá thấp như thầy/ cô đã cho, học sinh/ sinh viên được hỏi thẳng thầy/ cô giáo về lý do điểm thấp và cách thức làm để bài làm được tốt hơn. Diễn ngôn dưới đây cho thấy nhận xét này:

Tình huống: Một sinh viên vừa bị điểm thấp gặp giáo viên

Ngôn ngữ/ Người giao tiếp

Tiếng Anh

Tương đương trong tiếng Việt

Thầy/ cô giáo

Hello. Can I help you?

 

Chào em. Em cần gì nào?

SV

Hello. I'd like to talk about my low grade for the recent paper.

 

Em chào thầy/ cô ạ. Em xin hỏi thầy/ cô về điểm kiểm tra vừa qua của em hơi bị thấp ạ.

Thầy/ cô giáo

The reason you received a low grade was that your paper was not well organized and contained many spelling and grammar mistakes.

Sở dĩ em bị điểm thấp là dàn bài của em không tốt và có quá nhiều lỗi chính tả và ngữ pháp.

HS/ SV

Really? How can I improve it?

 

Thế ạ? Thưa thầy/ cô, bài của em thì nên sửa thế nào ạ?

Thầy/ cô giáo

If you want to improve your organization, make an outline before you write your paper. Read each sentence carefully to find mistakes in grammar and spelling. You may wish to have a friend help you find errors.

Nếu muốn có dàn bài tốt hơn thì phải làm đề cương trước khi viết. Đọc lại từng câu một để phát hiện lỗi ngữ pháp và chính tả. Có thể nhờ một bạn phát hiện lỗi hộ cho.

HS/ SV

That 's very helpful! Thank you very much.

Thầy chỉ cho em tốt quá. Em cảm ơn thầy.

Thầy/ cô giáo

I'm glad that will help you. Come to me before you hand in your next paper and we'll go over it together.

 

Giúp được em thì còn gì bằng nữa! Trước khi nộp bài lần sau thì nhớ đến để thầy trò mình cùng soát lại đã nhé.

 

KẾT LUẬN

Khảo sát về văn hoá, mà cụ thể ở đây là sự tương đồng và dị biệt giữa 2 nền văn hoá Mỹ - Việt qua chủ điểm hội thoại trường học vốn là một việc làm gần như không thể có điểm dừng. Tuy vậy, văn hoá luôn đan xen với ngôn ngữ, công trình khảo sát trên đây bước đầu cũng cho thấy những nét tiêu biểu nhất, tuy còn dừng ở mức độ khái quát, của 2 nền văn hoá thể hiện cụ thể qua lề lối làm việc, lối xứng xử hữu hoặc/ và phi ngụn. Chỳng tụi sẽ tiếp tục thông tin về những kết quả nghiên cứu đối với các chủ điểm sinh hoạt khác như kết bạn, khỏm bệnh, sử dụng điện thoại, mua sắm, dự lễ hiếu - hỷ  vv…. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn mọi ý kiến đóng góp, thảo luận,  xây dựng,

 

Tài liệu tham khảo

Emitt, et al, (1989) Language and learning, Melbourne: OUP

Fishman, J.A., (1972) Sociolinguistics: A Brief introduction, Mass.: Newbury Publishers

Lê Hùng Tiến, (2010) Phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ học ứng dụng, Hà Nội: NXB ĐHQGHN

Trần Xuân Điệp, (2005) Sự kì thị giới tính trong ngôn ngữ, Hà Nội: NXB ĐHSP.

Trần Xuân Điệp (2005), “Tính đa dạng của ngôn ngữ và việc giảng dạy ngoại ngữ”, Ngôn ngữ (Tạp chí chuyên ngành của Viện Ngôn ngữ học), 10(197)/ 2005, ISNN: 0866-7519, tr. 42–7.

Trần Xuân Điệp, (2009) US culture thru speaking, Hà Nội: NXB ĐHSP

 

Abstract

After the in-depth study of US and Vietnamese Cultures in Contrast through Some Topics of Everyday Conversation it is intended that the research findings be published (see Tạp chớ khoa học – Journal of Science (ĐHSPHN), ISSN: 0868-3719, #53, No. 7/ 2008, p. 134- 42),  Tạp chí khoa học – Journal of Science, (ĐHSPHN), ISSN 0868 - 3719, Vol. 55, No. 1/ 2010, p. 123 - 34), Ngôn ngữ và đời sốngLanguage and Life, # 10 (168) - 2009, p.  40 - 3). The following article will look at the cultural representations in the topic of “at School” from US-Vietnamese CA perspectives. The article is to dicuss verbal &/or nonverbal behaviors between teachers and students and among students in US schools and contrast these with their equivalents in Vietnamese schools. Consequent conclusions about how culture and language are employed at school from will be drawn from US-Vietnamese CA perspectives.

 

 

Cập nhật: 9/15/2014 - Lượt xem: 1976

Bài cùng chuyên mục